CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH NGƯỜI HIỆN THỰC HÓA ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

         Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời từng khẳng định: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”; “Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Chính vì vậy, độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là quyết tâm không lay chuyển trong tư tưởng của Người.

Những ngày tháng năm năm nay, mừng sinh nhật Bác, có dịp nghe lại ca khúc Lời ca dâng Bác sáng tác của Trọng Loan, một lần nữa chúng ta nhận thấy được tấm lòng của Bác với đồng bào miền Nam, với độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là mục đích duy nhất, cao cả nhất của Người.

1. Độc lập dân tộc là khát vọng nghìn đời của dân tộc Việt Nam và là chân lý của mọi thời đại.

Xuất phát từ vị trí, địa lý, địa hình và lịch sử truyền thống của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm, độc lập dân tộc là khát vọng nghìn đời của dân tộc. Hơn 1000 năm chống lại các thế lực phong kiến phương Bắc xâm lược, bài thơ NAM QUỐC SƠN HÀ là một sự khẳng định độc lập, chủ quyền của dân tộc:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lại xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Dịch nghĩa: SÔNG NÚI NƯỚC NAM

Núi sông nước Nam vua Nam ở,

Rành rành đã định bởi sách trời.

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời! 

Những lời tuyên bố đanh thép ấy của Lý Thường Kiệt như là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc.

Tuy nhiên, bản chất thâm độc của các thế lực phong kiến phương Bắc vẫn không thay đổi, chúng luôn muốn thôn tính, đồng hóa Việt Nam. Gần 500 trăm năm sau, một lần nữa độc lập dân tộc mới được thực hiện trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau

Song hào kiệt thời nào cũng có. 

Đây được xem như là lời tuyên bố độc lập, thống chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

Trong Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 Bác khẳng định: Hỡi đồng bào cả nước, "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Các bản tuyên ngôn độc lập qua các thời đại đã khẳng định: Độc lập dân tộc là khát vọng nghìn đời của dân tộc Việt Nam, là chân lý của mọi thời đại.

2. Độc lập, tự do, hạnh phúc – nhu cầu sống còn của dân tộc.

Độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự là kết quả của quá trình đi tìm sự thật đằng sau khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của Nguyễn Ái Quốc. Khác với các nhà yêu nước khác, với những xu hướng, con đường cứu nước khác nhau, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sang ngay nước Pháp tìm sự thật ẩn náu phía sau của khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp đó là nhãn quan chính trị vượt thời đại của Người vượt qua tầm nhìn của các nhà yêu nước những năm đầu thế kỷ XX.

Bản chất thực của khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc kiểm nghiệm qua các cuộc cách mạng tư sản và tại Việt Nam với tư cách là một nước thuộc địa của thực dân Pháp.

Khảo nghiệm các cuộc cách mạng tư sản Mỹ (1776) và Cách mạng tư sản Pháp (1789), Người rút ra nhận xét: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Bởi vậy: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai”.

Chính khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” một trong những động lực cơ bản đã giúp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu dân, cứu nước.

Đi theo con đường của Cách mạng tháng mười Nga 1917 thì mới giải phóng dân tộc thực sự và mới có “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” thực sự: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”.

Tiếp cận chủ nghĩa Uynxơn, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Sau một thời gian nghiên cứu và theo dõi, chúng tôi nhận thấy rằng “chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn”. Chọn lựa chủ nghĩa Mác-Lênin làm học thuyết cách mạng nhất và chủ nghĩa chân chính nhất nhằm giải phóng dân tộc và khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức, “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” mới là hiện thực.

Tháng 7-1920, đọc được Luận cương của V.I.Lênin về Vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc, vui mừng đến phát khóc: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Người đã tìm đến chủ nghĩa Mác-Lênin: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2002, t.2, tr.268]. Đó là nhãn quan chính trị vượt thời đại của Bác vượt qua tầm nhìn của các nhà yêu nước những năm đầu thế kỷ XX.

Từ tư tưởng Tam dân của Tôn Dật Tiên: Dân tộc độc lập, dân quyền tư do, dân sinh hạnh phúc. Bác đã tóm gọn thành nội dung tiêu ngữ hai dòng công bố toàn nhân loại: Việt Nam dân chủ cộng hòa; Độc lập, tự do, hạnh phúc.

Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945 khẳng định: Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. 

3. Thống nhất đất nước - mục đích cuối cùng của Bác và của dân tộc.

Ngày 7/5/1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta kết thúc thắng lợi bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Song dân tộc Việt Nam vẫn chịu nỗi đau đất nước bị chia cắt do âm mưu và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Hòa bình lập lại ở miền Bắc, nhưng miền Nam vẫn bị quân thù giày xéo. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn canh cánh trong lòng sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: “Trái tim của tôi và 17 triệu đồng bào miền Bắc luôn luôn đập một nhịp với trái tim của đồng bào miền Nam”. Người khẳng định: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập, tự do không thể tách rời với sự thống nhất đất nước, với non sông liền một mối, Người luôn canh cánh nỗi niềm với miền Nam thân yêu “Hình ảnh miền Nam yêu quí luôn ở trong trái tim tôi”. Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong Người cháy bỏng hơn lúc nào hết. Đối với Người “Một ngày Tổ quốc chưa thống nhất, miền Nam chưa được giải phóng là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. 

Ngày 6 tháng 7 năm 1956, trong thư gửi đồng bào cả nước, Người đã viết: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta”. Đầu năm 1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 đã xác định: con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Năm 1962, tiếp Đoàn đại biểu miền Nam ra thăm miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ mong muốn miền Nam sớm được giải phóng để Người vào thăm đồng bào, cán bộ, chiến sĩ thân yêu ở miền Nam. Đầu năm 1965, bị thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến, đồng thời dùng không quân, hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đứng trước thử thách nghiêm trọng, bạn bè quốc tế lo ngại liệu Việt Nam có thể đương đầu với Mỹ. Song với tư duy khoa học và biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã đánh giá đúng tương quan lực lượng ta- địch và đề ra chủ trương động viên cả nước kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào. Người khẳng định trong Lời kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ: “Lúc này chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”. Khi đế quốc Mỹ dùng máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, ngày 17/7/1966, Người ra lời kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Lời kêu gọi toàn quốc chống Mỹ cứu nước 1966: Dưới sự lãnh đạo kiên quyết và khôn khéo của Mặt trận Dân tộc giải phóng, quân và dân miền Nam ta đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu anh dũng, đã thắng lợi vẻ vang và quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn, để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn! 

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định nhiệm vụ trung tâm, trọng yếu của cách mạng Việt Nam: “Lúc này chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”; “phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”. Người kêu gọi: “Tất cả chúng ta hãy đoàn kết nhất trí triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Người vững tin vào sức mạnh của lòng yêu nước, vững tin vào đồng bào, chiến sĩ miền Nam: “Quân và dân ta ở miền Nam có đủ khả năng đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ dù chúng đưa thêm vào miền Nam mấy chục vạn quân nữa”. Trong bài thơ chúc Tết Kỷ Dậu 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra nhiệm vụ cách mạng: Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào, Bắc, Nam sum họp, xuân nào vui hơn!

Cho đến những ngày sắp đi xa, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Người viết: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Niềm tin của Người đã thôi thúc toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đấu tranh giành thắng lợi trước kẻ thù xâm lược và bè lũ bán nước.

Đại thắng mùa Xuân 1975 là kết quả của cả chặng đường dài chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh của mọi người Việt Nam yêu nước; của khối đại đoàn kết 54 dân tộc trên toàn cõi Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, phản ánh quy luật phát triển và tồn tại ấy.

4. Sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp thống nhất đất nước, giành, giữ tự do, độc lập dân tộc.

Phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp thống nhất đất nước. Sức mạnh to lớn của toàn dân, toàn quân Việt Nam dưới sự lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm nên những chiến công vang dội: Tết Mậu Thân 1968, cuộc Tiến công chiến lược năm 1972, “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng cuối năm 1972. Những chiến công ấy của quân và dân ta làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đối phương, buộc đối phương dù còn rất ngoan cố và rất hiếu chiến vẫn phải ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam... Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vững tin vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tư tưởng Hồ Chí Minh, con người Hồ Chí Minh tỏa ra sức mạnh hội tụ toàn thể dân tộc đoàn kết một lòng, dốc sức đánh giặc vì sự toàn vẹn của non sông, vì khát vọng về một nền thái bình bền vững của một nước Việt Nam độc lập, tự do, giàu mạnh. “Tinh thần cao cả của Người đã khiến cho ngay cả những kẻ thù địch với Người cũng phải kính trọng, khâm phục, và hơn ai hết, Người đã tập hợp được chung quanh tên tuổi của Người những cuộc đấu tranh và những niềm hy vọng của những người bị áp bức trên khắp trái đất”.

Sau Hiệp định Pari, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc đang chuyển biến mau lẹ, “một ngày bằng hai mươi năm”. Chớp thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng hạ quyết tâm động viên sức mạnh cao nhất của cả nước, kiên quyết giải phóng hoàn toàn miền Nam. Hướng ra tiền tuyến lớn, miền Bắc dốc toàn bộ sức mạnh tiềm tàng và to lớn của mình cho miền Nam tổng tiến công và nổi dậy. Trên chiến trường, quân dân ta mưu trí, dũng mãnh tiến công. 11 giờ 30 phút trưa 30-4-1975, lá cờ cách mạng phấp phới tung bay trên nóc phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn, báo hiệu chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ kính yêu toàn thắng, sự nghiệp giải phóng miền Nam toàn thắng. Một lần nữa, sức mạnh Việt Nam - sức mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc lại ngời sáng. Miền Nam đã được hoàn toàn giải phóng, non sông liền một dải, đất nước thu về một mối. Từ đây, Nam, Bắc sum họp một nhà, chung vui niềm vui thống nhất. Khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ý chí, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam về một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sau những năm dài trường kỳ kháng chiến đã trở thành hiện thực. Trong ngày vui đại thắng rợp cờ hoa, Người không kịp có mặt - đó là nỗi niềm bùi ngùi trong mỗi người dân Việt Nam, song, tư tưởng của Người, tình cảm của Người mãi mãi đồng hành cùng dân tộc.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quy luật, bài học quý giá của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, nhất là những thách thức an ninh phi truyền thống, việc nghiên cứu, vận dụng linh hoạt, sáng tạo quy luật kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có ý nghĩa cấp thiết, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam là gắn kết chặt chẽ toàn bộ sức mạnh quốc gia - dân tộc với sức mạnh của xu thế, mục tiêu quốc tế là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và sự phát triển bền vững của văn minh nhân loại, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trở thành bài học kinh nghiệm xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, qua hơn 36 năm đổi mới đất nước, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã để lại dấu ấn đặc sắc qua các kết quả, thành tựu to lớn, có tính bước ngoặt. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận ngặt nghèo, đến nay, nước ta đã vào nhóm nước có thu nhập trung bình, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; uy tín, vị thế quốc gia trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và nâng lên. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối diện với những thách thức lớn: rơi vào bẫy thu nhập trung bình; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; các nhân tố của an ninh phi truyền thống và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội…Trước yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, việc vận dụng quy luật kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan. 

Ai yêu miền Nam như tấm lòng của Bác; Có mối tình nào mà thuỷ chung mà son sắt; Như tấm lòng của Bác nhớ tới đồng bào miền Nam; Bao núi bao sông bấy nghĩa bấy tình; Bao núi bao sông bấy nghĩa bấy tình. Đó chính là tấm lòng của Bác với đồng bào miền Nam, Bác xin tạm hoãn việc trao tặng Huân chương Lênin - Huân chương cao quý nhất của Liên Xô, khi Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô quyết định tặng Người nhân dịp kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga. Người nói: “Đến ngày nhân dân chúng tôi đánh đuổi được bọn đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam, tôi sẽ đại biểu cho toàn thể đồng bào tôi, trân trọng và vui mừng lãnh lấy Huân chương mang tên Lênin vĩ đại”. Tháng 5/1968, khi Quốc hội nước ta quyết định trao tặng Người Huân chương Sao Vàng, Người đã chối từ với lý do làm xúc động triệu triệu con tim. Người nói: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng”. Tình cảm của Bác với miền Nam luôn luôn là tình cảm ruột thịt "Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà". Và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết "Miền Nam mong Bác nỗi mong cha".                                                                  

Tác giả
ThS. Nguyễn Thành Phương