VIỆT NAM – MỘT DÂN TỘC LÀM NÊN KỲ TÍCH TRONG SUỐT TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ

Lịch sử dân tộc Việt Nam suốt hàng nghìn năm qua đó là lịch sử của dựng nước và giữ nước quy định thành hai nhiệm vụ chiến lược của dân tộc. Xuyên suốt chiều dài lịch sử ấy, dân tộc Việt Nam đã làm nên những kỳ tích vĩ đại. Từ khi có Đảng Cộng sản ra đời và lãnh đạo, dân tộc Việt Nam lại lập thêm những kỳ tích mới trong thời đại mới, đặc biệt là trong việc thực hiện tiếp tục hai nhiệm vụ chiến lược của dân tộc ở thời đại ngày nay là xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.

Kỳ tích mới được khẳng định: Nhìn lại gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước

Ôn cổ tri tân đây cũng là dịp để các thế hệ con người Việt Nam tiếp nối truyền thống lịch sử hào hùng và vẽ vang của dân tộc tiếp tục lập nên những kỳ tích mới ở thời đại mới là việc làm hết sức cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt nhất là đối với thế hệ trẻ hiện nay hiểu lịch sử dân tộc để định hướng phát triển cho tương lai dân tộc.

1. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích trong chống ngoại xâm giành, giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

1.1. Chống phong kiến Bắc thuộc hơn 1000 năm.

Lịch sử Việt Nam và Trung Hoa có những nét tương đồng và khác biệt, năm 221(TCN) Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa lập ra nhà nước phong kiến đầu tiên ở châu Á và trên thế giới, năm 218 Tần Thủy Hoàng từng sai tướng Đồ Thư mang 50 vạn quân xâm lược nước ta. Theo sách Hoài Nam Tử và nhiều tư liệu lịch sử hiện nay, từ năm 218-208 TCN, dưới sự chỉ huy của Thục Phán (An Dương Vương), quân ta từng đánh tan 50 vạn quân Tần do tướng Đồ Thư chỉ huy. Cuối cùng, Đồ Thư bại trận, bị giết chết. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích đầu tiên trong chống ngoại xâm giành, giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Chống Tống lần thứ nhất, Lý Thường Kiệt làm nên kỳ tích trong việc hoạch định chiến lược, chiến thuật phù hợp với tình thế quân và dân ta lúc bấy giờ: Phòng ngự sang đất Tống, Phòng tuyến sông Như Nguyệt đã thể hiện phương châm "lấy yếu thắng mạnh", "lấy ít địch nhiều". Cuối cuộc chiến chống Tống Lý Thường Kiệt cho ra đời bài thơ thần Sông núi nước Nam như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc: Sông núi nước Nam vua Nam ở, Rành rành đã định bởi sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời. Bản tuyên ngôn như một lời khẳng định: Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích trong chống ngoại xâm giành, giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Chiến thắng Bạch Đằng giang năm 938 Ngô Quyền đã kết thúc hơn 1000 năm đô hộ phong kiến phương Bắc, nền độc lập dân tộc được thực hiện, giang sơ thu về một mối. Trong thế trận của Ngô Quyền, trận địa mai phục bên trong bãi cọc giữ vai trò quyết định, chặn đứng đoàn thuyền địch và giáng cho chúng một đòn tiêu diệt bất ngờ, nặng nề. Trận địa cọc giữ vai trò quan trọng, khóa đường tháo chạy của chiến thuyền địch và bao vây tiêu diệt triệt để quân giặc. Sự phối hợp giữa hai trận địa chứng tỏ quyết tâm chiến lược của Ngô Quyền là phen này không chỉ đánh bại quân giặc mà còn bao vây, tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của giặc, giành thắng lợi oanh liệt, đập tan mộng xâm lược bành trướng của triều Nam Hán. "Trận địa cọc" là một nét độc đáo của trận Bạch Đằng, cũng là một sáng tạo rất sớm trong nghệ thuật quân sự Việt Nam mà người khởi xướng là Ngô Quyền một kỳ tích mới của dân tộc Việt Nam được xác lập. 

Dòng chảy lịch sử tiếp tục trôi xuôi, nhân dân ta tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của mình trong kháng chiến chống Mông - Nguyên một đế chế hung hãn nhất của thế kỷ XIII. Với ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên xâm lược, Quân và dân nhà Trần đã làm nên những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Thắng lợi đó là minh chứng hùng hồn, khẳng định sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của vương triều Trần cùng tinh thần tự lực, tự cường, ý chí cố kết cộng đồng và quyết tâm bảo vệ non sông, bờ cõi của quân, dân Đại Việt.

Nhà Trần tiếp tục đưa đất nước phát triển mạnh mẽ, làm nên "hào khí Đông A" với những chính sách ưu việt, nổi bật là "việc chăm lo củng cố triều chính, binh bị, bố phòng đất nước, khoan thư sức dân, ngụ binh ư nông" v.v. là một kỳ tíchKhi biết tin quân Mông - Nguyên chuẩn bị xâm lược nước ta, vua tôi nhà Trần đã đoàn kết một lòng cùng với nhân dân cả nước khẩn trương làm công tác chuẩn bị để đánh giặc giữ nước. Trong vòng 30 năm (1258 - 1288), dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của vương triều Trần, quân và dân Đại Việt đã ba lần đánh bại quân Mông - Nguyên xâm lược, bảo vệ vững chắc giang sơn, bờ cõi. Có được chiến thắng trước đội quân xâm lược hùng mạnh là do nhiều yếu tố hợp thành; trong đó, yếu tố cơ bản, quan trọng là “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức” và sự chỉ đạo chiến lược sáng suốt, tài tình của Bộ Thống soái Đại Việt, đứng đầu là các vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Với chủ trương: Tránh đối đầu trực diện quy mô lớn với địch, chủ động rút lui, bảo toàn lực lượngtừng bước đưa chúng vào thế trận chuẩn bị trước, đánh trận quyết định. Triệt để tiến hành kế “thanh dã”, cắt đứt đường tiếp tế lương thảo của giặc khiến chúng rơi vào cảnh thiếu thốn, đói khát; quân tướng hoang mang, lo sợ, giảm sút ý chí chiến đấu. “thanh dã” - “vườn không, nhà trống” và tiến hành kháng chiến lâu dài theo kế hoạch của triều đình là một kỳ tíchSự chỉ đạo chiến lược đó khẳng định tầm nhìn, tư duy sáng tạo, khả năng tổ chức của Bộ Thống soái Đại Việt, đứng đầu là các vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là một kỳ tích, đồng thời là bài học quý cần vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. 

Bản chất của các thế lực phong kiến phương Bắc không thay đổi chúng luôn dòm ngó, xâm lược, thôn tính, đồng hóa dân tộc ta, chiến thắng quân Minh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi kết thúc cuộc trường kỳ 10 năm chống xâm lược của dân tộc ta với những kỳ tích: Hội thề Lũng Nhai, Hội thề Đông Quan, 21 Lê Lai, 22 Lê Lợi, phục binh nơi biên ải hiểm yếu (Nam Quan, Ải Lưu, Ải Chi Lăng) Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần.     

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo/Như nước Đại Việt ta từ trước/Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/Núi sông bờ cõi đã chia/Phong tục Bắc Nam cũng khác/Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập/Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương/Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/Song hào kiệt thời nào cũng có. Bình Ngô đại cáo như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích trong chống ngoại xâm giành, giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Chiến thắng Đống Đa chống quân Thanh, Nguyễn Huệ đã để lại cho dân tộc những kỳ tích độc đáo nhất. Đó là "người Anh hùng “áo vải, cờ đào” “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!”."Cuộc hành quân thần tốc", Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích trong chống ngoại xâm giành, giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

1.2. Chống thực dân Pháp xâm lược.

Những ngày đầu chống Pháp trước khi Đảng ra đời với "Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi,/Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chỉ nài sắm dao tu, nón gõ./Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;/Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ". Với Hoàng Hoa Thám Pháp gọi Hùm thiêng Yên Thếvới khẩu thần công của Hồ Nguyên Trừng và súng trường nòng thẳng của Cao Thắng và lửa hồng Nhật Tảo của Nguyễn Trung Trực… Trận Mù U, rồi Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương tuẫn tiết giữ thành quyết tâm chống Pháp đến cùng. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích trong chống ngoại xâm giành, giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Nguyễn Ái Quốc sau các cuộc khảo nghiệm cách mạng thế giới đã tìm được con đường cách mạng vô sản, con đường cứu dân cứu nước giải phóng dân tộc, tổ chức thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản tức độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích mới.

- Ba cuộc tổng diễn tập tiến tới Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám 1945 với việc nằm chắc và sử dụng tốt tình thế cách mạng, thời cơ và thời điểm cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát lệnh tổng khởi nghĩa thắng lợi, Tuyên ngôn độc lập 2/9 khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích trong chống ngoại xâm giành, giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

- Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp với đường lối kháng chiến: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh đi đến đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẩy năm châu, chấn động địa cầu. Chiến thắng Điện Biên Phủ đi vào lịch sử của dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích trong chống ngoại xâm giành, giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

1.3. Chống Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Với khẩu hiệu: Không có gì quý hơn độc, tự do, thế hệ Hồ Chí Minh với chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, Mà lòng phơi phới dậy tương lai". Với địa đạo Củ Chi, với tinh thần "Dám đánh Mỹ và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, bám thắt lưng địch mà đánh", nhân dân miền Nam "Ra ngõ gặp anh hùng" đã làm nên Đồng khởi ở Bến Tre long trời, lỡ đất. Song song đó là "Trận tuyến thầm lặng" với những con người sống trong lòng địch nhưng quyết tâm đánh thắng địch "Biệt động Sài Gòn" "Đặc công Rừng Sát" những cái tên đã làm nên kỳ tích của một dân tộc.

2. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.

2.1. Xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội miền Bắc.

Khôi phục, phát triển kinh tế sau chiến tranh, nông nghiệp khuyến khích sản xuất, chú trọng chăn nuôi, thâm canh tăng vụ (5 tấn/ha), sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với 1968. Công nghiệp: Khôi phục và xây dựng nhiều cơ sở, xí nghiệp công nghiệp. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với 1968. Giao thông vận tải nhanh chóng khôi phục. Văn hóa, giáo dục, y tế được phục hồi và phát triển. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích mới.

Chống lại hai lần Mỹ đánh phá miền Bắc, Âm mưu của Mĩ phá tiềm lực kinh tế - quốc phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc. Ngăn chặn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam. Uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Cứu nguy cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Ngày 6/4/1972, Mỹ ném bom một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16/4/1972, chính thức tiến hành chiến tranh không quân phá hoại miến Bắc lần II, sau đó phong tỏa cảng Hải Phòng, các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc. Nhân dân miền bắc kịp thời chống trả ngay từ đầu.  Nhờ được chuẩn bị trước và với tư thế sẵn sàng chiến đấu, miền Bắc tiếp tục chuyển sang kinh tế thời chiến, đảm bảo liên tục sản xuất và giao thông thông suốt. 

Từ 14/12/1972, sau 2 tháng ngưng ném bom để hỗ trợ cho mưu đồ chính trị và ngoại giao mới, Nichxơn mở cuộc tập kích bắn phá dữ dội Hà Nội, Hải Phòng bằng B52 trong 12 ngày đêm (từ 18/12/1972 đến 29/12/1972) nhằm giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta ký hiệp định có lợi cho Mỹ. Quân dân miền Bắc đánh bại cuộc tập kích của Mỹ, làm nên trận: “Điện Biên Phủ trên không”. Hạ 81 máy bay (34 chiếc B52, 5 chiếc F111), bắt sống 43 phi công Mỹ. Tính chung trong chiến tranh phá hoại lần II, ta hạ 735 máy bay (61 B52, 10 F111), 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến hàng trăm phi công. Buộc Mỹ phải tuyên bố ngưng các hoạt động chống phá miền Bắc (15/1/1973) và ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích mới.

Miền Bắc chi viện miền Nam, tháng 1-1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và khẳng định con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là con đường sử dụng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Thực hiện những nhiệm vụ trên đây, chiến trường miền Nam rất cần sự chi viện về lực lượng, vũ khí, đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng... với số lượng lớn. Chi viện sức người, sức của kịp thời trở thành yêu cầu sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của cách mạng miền Nam và điều đó đòi hỏi phải gấp rút mở những tuyến đường huyết mạch nối liền hậu phương với tuyền tuyến. Tuyến đường ấy phải đủ sức đảm nhận, hoàn thành nhiệm vụ vận tải chiến lược, đáp ứng yêu cầu, tình hình phát triển của chiến trường và thậm chí phải vượt trước một bước.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã giao nhiệm vụ cho Quân ủy Trung ương nghiên cứu, nhanh chóng mở tuyến giao thông vận tải và đến giữa năm 1959, đường Hồ Chí Minh trên bộ chính thức được triển khai. Buổi đầu, tuyến vận tải đường bộ dựa vào đường dây Thống Nhất để thực hiện nhiệm vụ, chủ yếu làm công tác giao liên, vận chuyển một số vật chất bằng phương pháp gùi thồ, chú trọng phòng tránh, giữ bí mật tuyệt đối để bảo vệ lực lượng, bảo vệ mục tiêu, nhiệm vụ.

Từ năm 1965, Mỹ sử dụng không quân, hải quân leo thang đánh phá miền Bắc, đưa các lực lượng quân bộ Mỹ và đồng minh tham chiến trực tiếp tại chiến trường miền Nam. Trước tình hình đó, "tất cả chi tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" là ý chí của hậu phương miền Bắc đối với cách mạng miền Nam. Từ năm 1969 đến 1972, Mỹ triển khai một loạt biện pháp nhằm ngăn chặn bằng được mọi nguồn tiếp tế từ bên ngoài vào miền Nam. Đoàn 559 mới chỉ mở được trục đường 20 - cửa khẩu vượt đỉnh Trường Sơn, nối với hệ thống đường chiến lược ở đường phía Tây Trường Sơn, rút ngắn cung độ đến các hướng chiến trường..., thì từ năm 1968 đến năm 1972, đã mở thêm 4 trục đường từ Đông Trường Sơn sang Tây Trường Sơn đảm bảo tiếp nhận hàng viện trợ từ bên ngoài và chi viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam, cả Lào và Campuchia. Từ năm 1969 - 1971: hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ 60% vào miền Nam, Lào, Campuchia. Năm 1972, 22 vạn thanh niên nhập ngũ vào chiến trường Đông Dương. Viện trợ khối lượng vật chất tăng 1,6 lần trước kia (năm 1972: tăng 1,7 lần so với năm 1971). 

Qua gần 16 năm xây dựng, từ lối mòn giao liên bí mật len lỏi dưới các triền rừng, với phương thức vận tải thô sơ, gùi thồ là chủ yếu, tuyến vận tải chiến lược phát triển thành hệ thống trục dọc và trục ngang, ngày càng vươn xa tới các chiến trường, vươn sâu vào các hướng chiến dịch. Tính đến năm 1975, tuyến vận tải chiến lược lên tới gần 20.000 km, bao gồm 4 hệ thống trục dọc dài 6.810 km, 13 hệ trục ngang dài 4.980 km, 5 hệ thống đường vượt khẩu dài 700 km, 1 hệ thống đường vòng tránh các trọng điểm dài 4.700 km, 1 hệ thống đường ống dài 1.300 km, tuyến vận tải đường sông vào tới Stung-treng. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích mới.

Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (từ ngày 5 đến 10/9/1960) tại Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đại hội lần này là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.

Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lầm thứ nhất, miền Bắc chuyển sang giai đoạn lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm. Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa. Củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh. Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động. Củng cố quôc phòng, tăng cường trật tự và an ninh xã hội. Chi viện cho miền Nam vũ khí, đạn dược, thuốc men. Nhiều đơn vị vũ trang, cán bộ quân sự, y tế giáo dục, bộ đội đưa vào nam chiến đấu, phục vụ chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng. Miền Bắc đã làm tròn nghĩa vụ với tư cách hậu phương lớn cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ thống nhất đất nước Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích mới.

2.2. Cả nước xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội 

Sau ngày chiến thắng 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước cùng bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khí cách mạng dâng cao là một thuận lợi, nhưng hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề cả về vật chất và con người, trong khi đó Việt Nam lại phải đối phó với chính sách cấm vận và chiến lược hậu chiến phá hoại của Mỹ. Tư duy quản lý từ thời chiến khi chuyển sang thời bình chưa kịp thời thay đổi, vẫn nặng về duy ý chí và quan liêu bao cấp trong quản lý, khiến tình hình kinh tế - xã hội rất khó khăn. Quan hệ giữa Việt Nam với Campuchia xấu đi nhanh chóng do những cuộc tấn công quân sự trên toàn tuyến biên giới của Chính quyền Pôn Pốt tiến hành, đồng thời quan hệ Việt Nam – Trung Quốc cũng ngày càng căng thẳng. 

Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, 1978 chiến tranh biên giới Tây nam. Đêm 30/4/1977 quân Pol Pot đồng loạt tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang (14 xã); từ tháng 8/1977, chúng tấn công khu vực biên giới các tỉnh Long An, Đồng Tháp; tháng 9/1977 chúng tấn công tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh (3 huyện). Từ ngày 22/12/1978 đến ngày 7/1/1979, Quân đội nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng công kích giải phóng Campuchia. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích mới.

10 năm làm nhiệm vụ quốc tế Campuchia (1979 - 1989), các lực lượng quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã giúp lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia vừa xây dựng lực lượng, vừa phối hợp chiến đấu truy quét tàn quân Pol Pot; giúp Bạn xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, các tổ chức đoàn thể từ Trung ương đến địa phương và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các cấp; từng bước ổn định và phục hồi tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, giáo dục, giao thông vận tải, y tế… chăm lo đời sống nhân dân. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích mới.

Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 từ ngày 17/2/1979, lấy lý do thực hiện một cuộc “phản kích tự vệ”, giới cầm quyền Trung Quốc huy động 60 vạn quân chủ lực tấn công quân sự đối với Việt Nam trên toàn tuyến phía Bắc từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) với chiều dài hơn 1.000km, trước sự kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta, đến 18/3/1979 Trung Quốc rút quân. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích mới.

Công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội một kỳ tích của dân tộc Việt Nam. Quyết định đổi mới của Đảng ta năm 1986 được xem như bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó là sự tự nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội nhằm khắc phục những sai lầm, hạn chế đã mắc phải, tìm con đường phát triển thích hợp với bối cảnh của thời đại. Quá trình này đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân không ngừng tìm tòi, sáng tạo có tính cách mạng. Thành tựu cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được Đại hội XIII khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.Trong thời đại mới, với nhiệm vụ mới, dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích mới.

3. Dân tộc Việt Nam làm nên kỳ tích trong quan hệ quốc tế.

Trong kháng chiến chống phong kiến phương Bắc xâm lược, thông qua vấn đề “sắc phong, triều cống” trong lịch sử, nhưng các vương triều Việt Nam luôn tỏ ra cứng rắn, không nhân nhượng khi Trung Hoa núp dưới danh nghĩa “điếu phạt” đưa quân xâm lược hoặc can thiệp vào nội bộ nước ta. Đó là văn hóa ứng xử của Việt Nam đối với người láng giềng khổng lồ Trung Hoa. 

Quan hệ quốc tế thời đại ngày nay thực hiện phương châm sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ngay từ những ngày đầu giành độc lập, Việt Nam đã và đang thực sự “là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Công tác đối ngoại mang bản sắc “cây tre Việt Nam” đã đạt được nhiều kết quả, thành tích rất tốt đẹp

Trong thời đại ngày nay, khi dân tộc Việt Nam đã "bước đến đài vinh quang, đã sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới", thế giới đã biết đến Việt Nam, Việt Nam nhất định sẽ làm nên kỳ tích mới, ở thời đại mới, với một niềm tin mới rằng xã hội cộng sản tương lai sẽ là: "Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người". Đó chính là một xã hội mà Việt Nam đang hướng tới: Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thật sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, chứ không phải cạnh tranh thắng - thua vì lợi ích vị kỷ của cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để đảm bảo với môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội.

Tác giả
ThS. Nguyễn Thành Phương