Sự nghiệp cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định ý Đảng lòng dân là một. Đó là sự kết hợp một cách khách quan của lịch sử là sự kiên định nhất quán và duy nhất đúng đắn của toàn Đảng, toàn dân ta.
95 năm qua, lần kiểm nghiệm lại tiến trình lịch sử dân tộc từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo từ những năm 1930 đến nay, chúng ta tự hào với thực tế khách quan khi ý Đảng và lòng dân là một: Khi Ý Đảng hợp lòng dân, dân tin Đảng thì không có thế lực nào có thể cản trở được bước tiến của dân tộc đi đến đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc, năm châu trên thế giới.
1. Đảng luôn vì dân, lấy dân làm gốc.
Khái niệm dân trong lịch sử nói chung,Tuân Tử viết: “Dân là nước, nước có thể chở thuyền mà cũng có thể lật thuyền”. Biểu tượng nước - thuyền là một “giáo cụ trực quan” sinh động nhất, không cần suy tư nhiều mà bậc quân vương nào muốn giữ vững chế độ cũng dễ dàng thấu hiểu. Nguyễn Trãi cũng vận dụng tư tưởng đó khi viết Phúc chu thủy tín dân do thủy (Làm lật thuyền mới biết dân như nước).
Dân trong lịch sử dân tộc Việt Nam luôn là chủ thể, là sức mạnh vĩ đại nhất. Nguyễn Trãi từng khẳng định: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đến thời đại Hồ Chí Minh, dân được xem: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” vì thế cả cuộc đời Người luôn phấn đấu cho dân: “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Sau cách mạng tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định nhiệm vụ cấp bách, cần làm ngay là chống "giặc đói, giặc dốt vì chúng là đồng minh của giặc ngoại xâm", nhưng nhiệm vụ hàng đầu là cứu tế cho nhân dân. Tiếp theo sau đó, Bác vạch ra 4 nhiệm vụ với mục tiêu rất thiết thực: 1) Làm cho dân có ăn; 2) Làm cho dân có mặc; 3) Làm cho dân có chỗ ở; 4) Làm cho dân được học hành.
Bác đã từng giải thích từ “dân chủ” đơn giản là: “dân làm chủ và dân là chủ”. Người cũng chỉ rõ giá trị lớn nhất, quan trọng nhất, cũng là sự khác biệt lớn nhất giữa chế độ mà chúng ta đang xây dựng với chế độ phong kiến, chế độ tư bản chính là “dân chủ”- nghĩa là người dân làm chủ, người dân phải có địa vị cao nhất trong xã hội. Đồng thời, Người đã nhiều lần dùng khái niệm "đầy tớ" và nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải phụng sự nhân dân, là công bộc của dân “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Theo Người, làm được điều đó cũng không đơn giản, không phải ai cũng làm được. Muốn làm được thì phải lắng nghe ý kiến của dân, chịu khó gặp dân, học dân, hỏi dân. Học hỏi, hiểu được dân thì mới lãnh đạo được dân. Bác không quên nhắc nhở cán bộ, đảng viên “mọi việc lớn nhỏ của đất nước đều phải dựa vào dân, dân là gốc, là nhân tố tạo nên mọi thành công”. “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ nhu cầu và khát vọng của nhân dân. Ngay sau khi Pháp nổ súng tấn công vào cửa biển Đà Nẵng, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đấu tranh rất mạnh mẽ, phản kháng lại sự xâm lược. Nổi bật là phong trào kháng chiến của nhân dân Đà Nẵng và nhân dân các tỉnh Nam kỳ với các cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Trung Trực, Trương Định làm thủ lĩnh. Sau khi thực dân Pháp chiếm được toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, phong trào Cần Vương (1885-1896), do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động đã phát triển mạnh mẽ từ Trung kỳ ra tới Bắc kỳ với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê… Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913 song tất cả đều thất bại mà lý do là chưa có một chính đảng với đường lối đúng đắn.
Đầu thế kỷ XX, nhà yêu nước Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908). Trong khi đó, nhà yêu nước Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Ở Bắc kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. Ở Trung kỳ, có cuộc vận động Duy tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế (1908). Các phong trào đấu tranh dù là bạo động hay không bạo động, theo tư tưởng phong kiến hoặc dân chủ tư sản cuối cùng đều thất bại. Việc tìm cho dân tộc Việt Nam một con đường, một tổ chức cộng sản nhằm giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp ngày càng trở nên cấp thiết.
“Đại bác của bọn đế quốc không thể át tiếng nói yêu nước của nhân dân Việt Nam. Trong suốt gần một thế kỷ thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong máu. Những đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam... Trong mấy mươi năm chưa có Đảng, tình hình đen tối như không có đường ra”. Đảng Cộng sản Việt Nam đi theo một đường lối chính trị đúng đắn, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, tất cả đều hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân tại Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn đó. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng được đánh giá là sự kiện lịch sử có ý nghĩa cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng to lớn và quan trọng trong lịch sử của cuộc cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin cùng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Chúng ta thấy được rằng, sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị để xác định đúng đắn con đường cách mạng đó là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã có thể nắm được ngọn cờ lãnh đạo đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Việc này cũng góp phần quan trọng giúp giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, từ đó mà đã mở ra con đường và phương hướng cụ thể để phát triển mới cho đất nước Việt Nam.
Chính đường lối được Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành này là cơ sở để có thể đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc ta đều cùng chung tư tưởng và hành động để nhằm có thể tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành được những thắng lợi to lớn ở giai đoạn sau này. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là điều kiện cơ bản quyết định đối với phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt nhiều năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng với việc Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, việc này cũng đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại từ đó giúp dân tộc ta làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bên cạnh đó thì cách mạng Việt Nam cũng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân trên phạm vi toàn thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Đảng đã lựa chọn cho dân con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính cương của Đảng đã nêu "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản." Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thể hiện như sau: Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng phải lấy dân làm gốc. Từ khi ra đời Đảng và Bác Hồ đã khẳng định: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông. Muốn cách mạng thành công phải tập hợp, đoàn kết được lực lượng của toàn thể dân chúng.
Đảng có trong sạch, vững mạnh toàn diện, tổ chức cơ sở đảng có nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là do dân tin tưởng và đóng góp ý kiến, dân kiểm tra, giám sát chặt chẽ.
2. Dân tin Đảng vì Đảng lo cho dân.
2.1. Đảng đã đem lại cho dân: Độc lập dân tộc, ruộng đất dân cày.
Đảng đem lại Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho Nhân dân, Tuyên ngôn độc lập 02/9/1945 khẳng định: Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Đảng đã làm cho dân Việt Nam "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Chiến thắng Điện Biên Phủ - Chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi của quân và dân ta ở Điện Biên Phủ là một trong những thắng lợi to lớn nhất, oanh liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Được ghi vào lịch sử Việt Nam như một trong những chiến công chói lọi nhất, một Bạch Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa của thế kỷ XX. Chiến thắng Điện Biên Phủ được ghi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách đột phá thành trì của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa nô dịch thuộc địa”.
Đảng đã lo cho miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong lời khai mạc Đại hội III của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát lịch sử 30 năm đấu tranh và trưởng thành của Đảng, rút ra các bài học quý, đó là thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản và của dân tộc; giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và sự đoàn kết giữa các đảng cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa,… khẳng định Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để bảo đảm thắng lợi của cách mạng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải nâng cao hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng, phát huy hơn nữa tác dụng lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác. Nâng cao hơn nữa tính giai cấp, tính tiên phong của Đảng, không ngừng tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, đoàn kết mọi người yêu nước và tiến bộ để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Đại hội xác định, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là tăng cường đoàn kết toàn dân tộc, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế giới. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ quyết định đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta. Đó là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế phân tán và lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại.
Quá trình cải biến cách mạng ở miền Bắc là quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội. Đại hội khẳng định, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải biến miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho cả nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đồng thời, cách mạng miền Nam có vị trí rất quan trọng, quyết định trực tiếp sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất nước nhà.
Đảng đã lãnh đạo cách mạng miền Nam đánh thắng giặc Mỹ thống nhất đất nước. Lời kêu gọi toàn quốc chống Mỹ là quyết tâm chính trị cao độ, là dự báo chiến lược tất thắng trong quá trình giành độc lập dân tộc.
Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!
Nhân dân Việt Nam nhất định thắng! Giặc Mỹ xâm lược nhất định thua! Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh muôn năm! Đồng bào và chiến sĩ cả nước, anh dũng tiến lên!
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung bạo nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đồng thời, cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
2.2. Đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi tới xã hội cộng sản.
Đảng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia.
Đảng đã đem lại cho dân thành tựu vĩ đại của công cuộc đổi mới. Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân còn thiếu thốn, năm 1986, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước.
Hơn 30 năm qua, sự nghiệp đổi mới đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng (tháng 1 năm 2016) đánh giá: “Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Đảng đã đem lại cho dân mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Nhiệm vụ giải pháp hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội Việt Nam bằng giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; Quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; Quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Thực hiện Cương lĩnh năm 1930, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ và giành được những thắng lợi vĩ đại: làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, giải phóng một nửa đất nước, đưa miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa; kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đất nước Việt Nam thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.
Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới khẳng định Ý Đảng và lòng dân Việt Nam hiện nay là một.
Một khi Ý Đảng hợp lòng dân, dân tin Đảng thì không có thế lực nào có thể cản trở được việc hiện thực hóa khát vọng của dân tộc. Dân tộc Việt Nam luôn tuyệt đối tin tưởng vào Đảng mình đã lựa chọn từ những năm 1930, với một lòng vì dân Đảng sáng suốt lãnh đạo dân tộc Việt Nam kết thúc thắng lợi kỷ nguyên giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách vĩ đại. Ngày nay, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng lại đường hoàng với tư thế tiến công bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.