ĐOÀN KẾT LÀ SỨC MẠNH CỦA DÂN TỘC - MỘT GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CẦN ĐƯỢC PHÁT HUY TRONG TÌNH HÌNH MỚI

     Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời hàng nghìn năm trong lịch sử dựng nước và giử nước. Tuy nhiên, sự nghiệt ngã của lịch sử là đất nước ta luôn bị các thế lực phong kiến phương Bắc dòm ngó, đe dọa, xâm lược, đô hộ, thôn tính và cai trị trong suốt chiều dài lịch sử ấy. Bằng tinh thần đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc sâu sắc, tinh thần tự tôn dân tộc, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên đấu tranh giành và giữ nền độc lập dân tộc.

Trước thất bại liên tục của các cuộc khởi nghĩa từ sau Công nguyên, những tưởng dân tộc Việt Nam không thể tiếp tục đứng lên giành lại độc lập cho mình, nhưng kỳ lạ thay, vào năm 938, truyền thống văn hóa, văn hiến lại trỗi dậy, với tinh thần dân tộc quật cường, ý thức độc lập dân tộc sâu sắc bằng tinh thần đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc mở đầu bằng chiến thắng vang vội trên sông Bạch Đằng. Lịch sử mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ lâu dài cho dân tộc.

1. Đoàn kết là sức mạnh của dân tộc, một giá trị truyền thống của con người Việt Nam qua mọi thời đại.

Từ truyền thuyết, đoàn kết - một giá trị văn hóa truyền thống trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta

Trở về thời đại các vua Hùng dựng nước, qua kết quả của các nghiên cứu cho thấy sự phát triển của đồ đồng đã chấm dứt thời kỳ tồn tại hàng vạn năm của công xã nguyên thủy trước đó, thời kỳ mà người Việt cổ sống còn phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên để đi vào thời kỳ mới - thời kỳ người Việt cổ bắt đầu có ý thức với cuộc sống, với cộng đồng, với sản xuất. Việc người Việt cổ biết trồng trọt, chăn nuôi, biết dùng súc vật để kéo cày, biết làm lúa nước, làm thủy lợi, cùng với việc xuất hiện một số ngành nghề mới (thủ công, trồng dâu nuôi tằm, luyện đồng, rèn sắt...) đã tạo ra tiền đề ổn định, gia tăng sự gắn kết cộng đồng, nhờ đó cũng kéo theo cả sự phát triển của văn hóa. Văn hóa phát triển sẽ hình thành những giá trị văn hóa mới, trong đó đoàn kết là một giá trị văn hóa được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Thời kỳ An Dương Vương dựng nước Âu Lạc và lập đô tại Cổ Loa, miền đồng bằng của đất nước thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và văn hóa, cho thấy cư dân Âu Lạc tỏ rõ ý chí mạnh mẽ, tự tin vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Kế tục sự phát triển của nước Văn Lang, cư dân Âu Lạc đã cố kết xây dựng đất nước với nền văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ. Thời gian này có bước tiến mới của Âu Lạc trong kỹ thuật quốc phòng, người Âu Lạc đã chế tạo được loại nỏ bắn nhiều phát một lần, với mũi tên bằng đồng có ba cạnh sắc. Thành Cổ Loa được xây dựng mà đến nay được coi là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”. Đây là công trình thể hiện sự sáng tạo độc đáo của cư dân Âu Lạc trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Nhà Tần và sau đó Triệu Đà đã nhiều lần đưa quân đánh phá Âu Lạc nhưng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ tinh thần đoàn kết, ý thức tự chủ của cư dân Âu Lạc đã phát triển trên cơ sở nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ.

Có thể nói, sức mạnh của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc với cơ sở đoàn kết từ truyền thuyết "Trăm trứng, nở trăm con", truyện ngụ ngôn Bó đũa đã tạo cho cộng đồng người Việt có sức mạnh để chiến thắng giặc ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên suốt quá trình dựng nước và giữ nước trong buổi bình minh lịch sử.

Thời kỳ Bắc thuộc trên một ngàn năm, dù bị áp đặt ách thống trị và bóc lột tàn bạo, nhưng nhân dân ta đã đoàn kết, kiên cường đấu tranh với kẻ thống trị để giữ vững bản sắc văn hóa, để giữ gìn tiếng nói, phong tục tập quán của mình, đồng thời hoàn thiện và nâng cao nền văn hóa, văn minh của người Việt, củng cố tinh thần tự lực tự cường, tăng thêm ý chí đấu tranh giành độc lập tự chủ. Đây là giá trị to lớn nhất để chuẩn bị cho công cuộc giành quyền tự chủ. Chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền đã đánh bại ý chí xâm lược của nhà Nam Hán, kết thúc hoàn toàn thời kỳ bị phong kiến phương Bắc đô hộ, kéo dài trên một ngàn năm.

Dù bị phong kiến phương Bắc thống trị và âm mưu đồng hóa trên một ngàn năm, nhưng nhân dân ta đã vùng lên và giành lại được quyền độc lập, tự chủ. Đó chính là nhờ có ý chí độc lập tự do, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết của cư dân người Việt sớm được khẳng định trên cơ sở những thành tựu vật chất và tinh thần ngày càng phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước trước đó. Truyền thống đó lại được nuôi dưỡng bởi nền văn hóa, văn minh của người Việt định hình và phát triển trong thời kỳ Văn Lang - Âu lạc. Mặc dù âm mưu đồng hóa thâm độc, nhưng nền văn hóa của cư dân người Việt chẳng những không bị mai một, mà còn được bổ sung, làm phong phú thêm, làm tăng sức mạnh, hun đúc sức sống mãnh liệt của cộng đồng người Việt. Đây cũng là điều kiện hết sức quan trọng để đất nước vươn lên giữ vững nền tự chủ, dựng nước thịnh trị trong thời kỳ văn hóa - văn minh Đại Việt về sau này. Sau khi giành được độc lập, tự chủ, truyền thống đoàn kết trong công cuộc dựng nước và giữ nước tiếp tục được phát huy cao độ. Sử sách cho thấy, sau mỗi thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền của các triều đại phong kiến Việt Nam, vị thế của dân tộc ta ngày càng được củng cố và phát triển.

Đến hiện thực, đoàn kết là một giá trị văn hóa truyền thống quý báu được hình thành và phát triển trong lịch sử đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Lịch sử dân tộc đã chứng minh, đoàn kết tạo nên sức mạnh vô địch, đưa nước ta, dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang.

Đoàn kết là một giá trị văn hóa truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, được hình thành và phát triển trong lịch sử đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước. Đoàn kết, yêu nước nồng nàn, cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động và sống thích ứng là những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước từ xưa cho đến nay đã hình thành một cộng đồng dân tộc Việt Nam gắn bó keo sơn. Từ lòng yêu nước nồng nàn, sự đoàn kết muôn người như một đã tạo nên sức mạnh vô địch, giúp dân tộc ta đánh thắng các cuộc xâm lược của những đội quân hùng mạnh nhất, giữ gìn độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi ra đời tới nay là lịch sử dựng nước và giữ nước. Dựng nước và giữ nước luôn luôn gắn chặt với nhau. Phải xây dựng được đất nước hùng mạnh về mọi mặt mới có điều kiện, khả năng giữ nước, đồng thời phải giữ được nước mới có điều kiện để xây dựng đất nước. Trong quá trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc đã hình thành và phát triển giá trị văn hóa đoàn kết. Đó là thành quả văn hóa của dân tộc ta trong lịch sử mấy ngàn năm tồn tại và phát triển. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh rằng, đoàn kết là một giá trị văn hóa truyền thống tạo nên sức mạnh vô địch, đưa nước ta, dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang.

Vấn đề đoàn kết trong Di chúc là kết tinh tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình hoạt động cách mạng. Theo Người, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân ta. Trong những bài viết của Người, nội dung được bàn nhiều nhất là đoàn kết. Người tổng kết lịch sử nước ta: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để đánh đuổi Tây - Nhật, khôi phục lại độc lập, tự do”.

Từ khi ra đời, Đảng đã phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, nâng cao sức mạnh đoàn kết toàn dân thành sức mạnh đại đoàn kết dân tộc với một trình độ mới, một giá trị mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng kêu gọi: “Dân ta xin nhớ chữ đồng, Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!”. Đó là lời kêu gọi đoàn kết cô đúc nhất, từ đó đưa tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp và Mỹ, bước đầu thắng lợi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Với tư cách là người sáng lập Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong hệ thống chính trị, đoàn kết trong Đảng với ngoài Đảng, đoàn kết quốc tế. Để đoàn kết, Người chú trọng hai mặt: Một là, đề cao việc thực hiện đoàn kết với những nội dung, cách làm, biện pháp cụ thể đưa tới sức mạnh của cách mạng. Hai là, phê phán tư tưởng và hành vi mất đoàn kết, cô độc, hẹp hòi.

2. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn ân cần: “Toàn thể đảng viên và cán bộ từ Nam đến Bắc, bất kỳ mới, cũ, bất kỳ ngành nào, bất kỳ trong quân đội hay là ở địa phương, bất kỳ ở nông thôn hay là ở thành thị, phải đoàn kết chặt chẽ, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của mình; phải thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ”. Nhớ lời Bác dạy - ngày 12/3

Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người chỉ dạy hết sức chân tình: TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

3. Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại mới.

3.1. Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn mà là động lực trực tiếp trong xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội hiện nay. 

Phát sức mạnh đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, song Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng, đó là: Củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân. Trên tinh thần đó, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy cao độ, đó chính là động lực to lớn trong xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Một là, có phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mới từng bước thực hiện cho bằng được mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với những đặc trưng cơ bản: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Hai là, có phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mới tiếp tục thực hiện thắng lợi tám phương hướng, giải pháp: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội: Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Ba là, có phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mới đồng thời giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; Quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; Quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; Quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Bốn là, có phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mới từng bước xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân mới bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành công chủ nghĩa xã hội trong bất cứ tình huống nào.

Với việc phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mục tiêu cụ thể đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triến, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao

Bằng quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của nhân dân khi ý Đảng hợp lòng dân, dân tin Đảng, thì việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chớp lấy thời cơ và vận hội, đẩy lùi nguy cơ và thách thức, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

3.2. Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình thế giới hiện nay.

Một là, Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm mục đích góp phần thực hiện mục tiêu của thời đại

Trong giai đoạn hiện nay của thời đại, thế giới đang đứng trước các xu thế nổi bật tác động đến chiều hướng phát triển toàn nhân loại và chi phối trực tiếp đến tất cả các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục phát triển cả về trình độ và tính chất. Xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ nhất là cuộc cách mạng 4.0. Xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển. Các xu thế trên nhằm hiện thực hóa mục tiêu của thời đại ngày nay là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Hòa bình, hợp tác và phát triển đã và đang là một trong những xu thế khách quan, hết sức quan trọng và tối cần thiết trong quan hệ quốc tế hiện nay. Đây là xu thế và là ước mong của toàn nhân loại để xu thế này trở thành một giá trị lâu bền, bởi xu thế là vậy nhưng trên thực tế, ở nhiều nơi trên thế giới chưa có hòa bình, bởi vẫn có bạo lực, cường quyền áp đặt thay cho hợp tác và vẫn có những nguy cơ kèm lẫn sự phát triển vì thế cho nên Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc là nhằm thực hiện mục tiêu của thời đại ngày nay.

Hai là, Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm mục đích góp phần giải quyết những vấn đề toàn cầu

Ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều chịu tác động của vấn đề toàn cầu như bùng nổ dân số, khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa thiên tai, thảm họa môi trường sinh thái, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng, nghèo đói, biến đổi khí hậu và dịch bệnh… Trong những vấn đề gay cấn và là những thách thức to lớn đó, cạn kiệt tài nguyên, nhất là năng lượng và nguồn nước đang là vấn đề nổi trội, tác động tới an ninh và phát triển của nhiều nước, nhiều khu vực. Nhu cầu về tài nguyên của các nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế của các nước đang phát triển sẽ tăng vọt dẫn tới việc cạnh tranh các nguồn tài nguyên vốn đã gay gắt sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.

Thế giới đang ở trong thời kỳ có nhiều xáo động. Chủ nghĩa dân tộc nổi lên rất mạnh, chủ nghĩa phân hóa cũng đang phát triển và những tư tưởng cũng như hành vi cường quyền, cực đoan đang trỗi dậy. Trong khi các cuộc “Cách mạng màu” đã làm tan hoang một số nước tại Trung Đông, Bắc Phi; thì chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố quốc tế chưa bao giờ phức tạp như bây giờ. 

Chủ nghĩa khủng bổ, điển hình là IS vẫn đang duy trì hoạt động tại Irắc, Xyri và ở một số nước khác, đã không chỉ gây ra những bất ổn và biến động chính trị, quốc phòng, an ninh tại nhiều nước mà còn lôi cuốn nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực vào “chảo lửa” này. Nguy hiểm hơn, các tổ chức khủng bố đang mở rộng địa bàn hoạt động sang châu Âu, châu Á gây mất an ninh, an toàn xã hội. Chính vì thế Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm giải quyết những vấn đề toàn cầu.

Trong điều kiện tình hình trên một lần nữa chỉ có Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc cùng chung tay thì mới giải quyết tận gốc nguy cơ này của nhân loại.

Ba là, Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm mục đích góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu

Một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng của nhân loại trong tương lai là hạn chế nguy cơ biến đổi khí hậu nhằm giảm thiểu thảm họa do thiên tai gây ra như bão lụt, sóng thần, trượt đất, băng tan, lốc xoáy... Hàng chục triệu người đã bị tác động bởi thời tiết khắc nghiệt, bất thường trong hai thập kỷ qua. Lượng khí thải CO2 hàng năm cao hơn 3 lần so với thập niên 1990 và tỷ lệ sử dụng nhiên liệu hóa thạch tiếp tục tăng vọt. Do vậy, khẩu hiệu Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm mục đích ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu vẫn còn nguyên giá trị của nó.

Các nhà khoa học dự báo ngay cả khi loài người có thể ngừng hoàn toàn và ngay lập tức việc thải khí CO2 thì nhiệt độ trung bình của trái đất vẫn sẽ tiếp tục tăng từ mức cao hơn bình thường 0,8 độ C như hiện nay lên mức 1,6 - 1,8 độ C. Nhiệt độ mới cao hơn mức bình thường của trái đất sẽ kéo dài trong 500 năm nữa vì các đại dương, vốn đã bị ấm lên, cần có thời gian để hạ nhiệt. Để ngăn ngừa nguy cơ nhiệt độ trái đất sẽ tăng thêm 2 độ C nữa, tới ngưỡng gây thảm họa, thế giới cần ngay lập tức loại bỏ hoàn toàn việc thải khí CO2. Dưới đây là 10 giải pháp khả thi đã được Tạp chí Sciencetific America của Mỹ đưa ra:

1. Hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch; 2. Cải tạo, nâng cấp hạ tầng; 3. Làm việc gần nhà; 4. Giảm tiêu thụ; 5. Ăn uống thông minh, tăng cường rau, hoa quả; 6. Chặn đứng nạn phá rừng; 7. Tiết kiệm điện; 8. Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên sinh 1 con; 9. Khai phá những nguồn năng lượng mới; 10. Ứng dụng các công nghệ mới trong việc bảo vệ trái đất

Bốn là, Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm mục đích góp phần đối diện với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0   

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Sự phát triển của một số công nghệ mang tính đột phá trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ mạng 5G, công nghệ sinh học... đã và đang tác động mạnh mẽ tới mọi khía cạnh, từ an ninh - chính trị đến kinh tế, xã hội.

Ở cấp độ toàn cầu, khu vực hay Việt Nam đều chịu sự tác động hết sức nghiệt ngã. Tác động tới an ninh - chính trị; Tác động tới kinh tế; Tác động tới xã hội.

Có thể thấy rằng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước, nhất là các quốc gia khu vực Đông Nam Á như Việt Nam nhờ vào chuyển đổi kinh tế số để có thể rút ngắn khoảng cách phát triển. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Vì vậy, việc khéo léo lựa chọn con đường phát triển phù hợp là bước đi phù hợp để có thể vừa tránh được những rủi ro, vừa tận dụng tối đa các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Do vậy, khẩu hiệu Đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm mục đích ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu vẫn còn nguyên giá trị của nó.

Tác giả
ThS. Nguyễn Thành Phương