TOÀN ĐẢNG, TOÀN DÂN KIÊN ĐỊNH NHẤT QUÁN VỚI CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN 1930

 Cách đây 94 năm, sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại đối với cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới dân tộc Việt Nam có một chính đảng mácxít lãnh đạo đấu tranh giành độc lập. Ngay khi mới vừa ra đời, với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua bao khó khăn, thử thách và từng bước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Thời gian dù có trôi qua mau, bao thế hệ con người Việt Nam đã qua đi, nhưng những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên vẫn là ngọn cờ soi sáng, định hướng cho sự phát triển của đất nước và chỉ đường cho mọi hoạt động của Đảng ta và Nhân dân ta. Điều này được thể hiện rõ từ chính thực tiễn sự vận động của lịch sử dân tộc, của cách mạng Việt Nam kể từ năm 1930 đến nay.

1. Khát vọng của một dân tộc thuộc địa

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ nhu cầu và khát vọng của nhân dân. Ngay sau khi Pháp nổ súng tấn công vào cửa biển Đà Nẵng, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đấu tranh rất mạnh mẽ, phản kháng lại sự xâm lược. Nổi bật là phong trào kháng chiến của nhân dân Đà Nẵng và nhân dân các tỉnh Nam kỳ với các cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Trung Trực, Trương Định làm thủ lĩnh. Sau khi thực dân Pháp chiếm được toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, phong trào Cần Vương (1885-1896), do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động đã phát triển mạnh mẽ từ Trung kỳ ra tới Bắc kỳ với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê… Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913 song tất cả đều thất bại mà lý do là chưa có một chính đảng với đường lối đúng đắn.

Đầu thế kỷ XX, nhà yêu nước Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908). Trong khi đó, nhà yêu nước Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Ở Bắc kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. Ở Trung kỳ, có cuộc vận động Duy tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế (1908). Các phong trào đấu tranh dù là bạo động hay không bạo động, theo tư tưởng phong kiến hoặc dân chủ tư sản cuối cùng đều thất bại. Việc tìm cho dân tộc Việt Nam một con đường, một tổ chức cộng sản nhằm giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp ngày càng trở nên cấp thiết.

“Đại bác của bọn đế quốc không thể át tiếng nói yêu nước của nhân dân Việt Nam. Trong suốt gần một thế kỷ thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong máu. Những đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam... Trong mấy mươi năm chưa có Đảng, tình hình đen tối như không có đường ra”. Đảng Cộng sản Việt Nam đi theo một đường lối chính trị đúng đắn, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, tất cả đều hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân tại Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn đó. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng được đánh giá là sự kiện lịch sử có ý nghĩa cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng to lớn và quan trọng trong lịch sử của cuộc cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin cùng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Ta thấy được rằng, sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị để xác định đúng đắn con đường cách mạng đó là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã có thể nắm được ngọn cờ lãnh đạo đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Việc này cũng góp phần quan trọng giúp giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, từ đó mà đã mở ra con đường và phương hướng cụ thể để phát triển mới cho đất nước Việt Nam.

Chính đường lối được Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành này là cơ sở để có thể đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc ta đều cùng chung tư tưởng và hành động để nhằm có thể tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành được những thắng lợi to lớn ở giai đoạn sau này. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là điều kiện cơ bản quyết định đối với phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt nhiều năm qua. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng với việc Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, việc này cũng đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại từ đó giúp dân tộc ta làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bên cạnh đó thì cách mạng Việt Nam cũng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân trên phạm vi toàn thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên và tương lai của dân tộc.

2.1. Dân tộc Việt Nam hiện thực hóa từng nội dung Cương lĩnh 1930.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa, phong kiến. Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của Nhân dân ta với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại. Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.

Nội dung được đề cập trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích những vấn đề cơ bản có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, thể hiện sự đúng đắn của Đảng trong đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa, phong kiến ở Việt Nam, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu trong xã hội, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ để từ đó, đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam; xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra. 

Một là, về đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam nằm trong phạm trù cách mạng vô sản, độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên, là điều kiện tiên quyết để đi đến xã hội cộng sản. Chánh cương vắn tắt của Đảng viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(1). Với việc xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản đã cho thấy, ngay từ trong Cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đây chính là sự vận dụng lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện một nước thuộc địa, phong kiến; là định hướng quan trọng để trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã từng bước cụ thể hóa thành những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Vì vậy, trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn nhất quán khẳng định sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngay cả đến hiện nay, tại Đại hội XIII, trong các quan điểm định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn tới, Đảng tiếp tục khẳng định phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và coi đây là vấn đề có tính nguyên tắc, ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.

Hai là, về nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Cương lĩnh đã xác định những nhiệm vụ cơ bản, những mục tiêu cấp bách của cách mạng Việt Nam: Về phương diện chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập; Dựng ra Chính phủ công nông binh; Tổ chức ra quân đội công nông. Về phương diện xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; Nam nữ bình quyền; Phổ thông giáo dục theo công nông hóa. Về phương diện kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp; Thi hành luật ngày làm 8 giờ.

Cương lĩnh xác định những nhiệm vụ cơ bản, những mục tiêu cấp bách của cách mạng Việt Nam như vậy là hoàn toàn phù hợp với tính chất và mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội nước ta lúc bấy giờ là xã hội phong kiến, thuộc địa. Đây là cơ sở rất quan trọng để Đảng xác định đúng về lực lượng cách mạng và thực hiện các phương pháp, sách lược trong đấu tranh để đưa cách mạng đi đến thành công kể cả trong đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, về lực lượng cách mạng. Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng gồm toàn bộ những người Việt Nam yêu nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm: Công nhân, Nông dân, Tiểu tư sản, Trí thức, Trung nông...; tranh thủ, làm trung lập phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản. Trong đó, Sách lược vắn tắt viết: Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”; “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo”; “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông (...) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”, “Đối với (...) phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản (...) thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm chí họ đứng trung lập”(2).

Nội dung trên đây thể hiện quan điểm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, do liên minh công nhân và nông dân làm nền tảng. Chính quan điểm về lực lượng cách mạng được nêu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên là tiền đề, cơ sở, định hướng để Đảng thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hiện nay Đảng vẫn luôn chú chú trọng xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo phương châm không phân biệt giai cấp, địa vị, dân tộc, tôn giáo. Chính điều đó đã tạo nên nguồn lực to lớn cho sự phát triển của đất nước.

Bốn là, về vấn đề đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, Sách lược vắn tắt viết: “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”(3). Nội dung này thể hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, với phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức và với nhân loại tiến bộ là một vấn đề khách quan. Quan điểm này đã được hiện thực hóa trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và là yếu tố quan trọng tạo nên thành công của cách mạng Việt Nam trong suốt chặng đường 94 năm qua.

Năm là, về phương pháp cách mạng. Cương lĩnh xác định phương pháp thực hiện độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội phải tiến hành bằng con đường cách mạng, sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực; không đi vào con đường cải lương, thỏa hiệp. Việc xác định phương pháp cách mạng như vậy thể hiện Đảng đã quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về bạo lực cách mạng và cũng xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, thực dân Pháp luôn dùng bạo lực phản cách mạng để đàn áp Nhân dân, vì vậy muốn thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp thì không có con đường nào khác con đường bạo lực cách mạng, chứ không phải con đường cải lương, thỏa hiệp. Quan điểm dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của được nêu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên là cơ sở cho đường lối quân sự với phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng, là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành chính quyền và trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, để đem lại nền hòa bình cho dân tộc.

Sáu là, về vai trò lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh xác định lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam, “đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng. Nội dung này vừa khẳng định vai trò và bản chất giai cấp của Đảng, vừa là sự định hướng quan trọng cho công tác xây dựng Đảng. Chính vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn khẳng định và quan tâm bồi đắp bản chất giai cấp công nhân của Đảng; khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

Từ thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam và từ những nội dung được đề cập trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có thể khẳng định rằng, đây là lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một văn kiện chính trị phản ánh đúng quy luật phát triển của xã hội Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới; đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại. Chính nhờ có Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo nên ngay từ khi mới ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng trở thành lực lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc theo con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân đã lựa chọn, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”(4).

Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh chính trị đầu tiên, nhất là những định hướng về những vấn đề có tính chiến lược của cách mạng được đề cập trong Cương lĩnh chính là nền móng, cơ sở quan trọng để Đảng đã không ngừng cụ thể hóa và có bổ sung, phát triển trong đường lối, chủ trương; trong tổ chức chỉ đạo thực tiễn của Đảng ở từng giai đoạn lịch sử, dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thác ghềnh để đi đến những thắng lợi. Điều này đã được khẳng định bởi quá trình khảo nghiệm của lịch sử và qua những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhất là trong bối cảnh những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, trước sự khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định con đường cách mạng được xác lập tại Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: “Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng(5).

2.2. Tương lai dân tộc Việt Nam được Cương lĩnh chính trị đầu tiên 1930 của Đảng phát họa những nét cơ bản, đặc sắc.

Chánh cương vắn tắt của Đảng viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” tức là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật của lịch sử dân tộc Việt Nam, của cách mạng Việt Nam luôn gắn dựng nước với quá trình giữ nước; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và ngày nay xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trở thành nhiệm vụ chiến lược của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử.

“Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” đó là sự lựa chọn nhất quán và duy nhất đúng đắn không chỉ hoàn toàn phù hợp với nhu cầu và khát vọng của một dân tộc thuộc địa mà còn phù hợp với xu thế vận động và phát triển của thời đại, đáp ứng mục tiêu của loài người. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có quan điểm của Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội và kế tục sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt hơn 95 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngay cả khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào thoái trào rồi khủng hoảng, sụp đổ vào những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng ta vẫn luôn vững vàng niềm tin về tương lai của lịch sử loài người là chủ nghĩa xã hội: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử”; “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển quan điểm của Ph.Ăngghen về sự phát triển “rút ngắn”, Đảng ta cũng đã chỉ rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Nội hàm của việc “bỏ qua” này được Đảng ta chỉ rõ như sau: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo sự biến đổi về chất của xã hội trên các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”.

 Trung thành tuyệt đối với Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng và nhân dân ta tự hào vẽ tiếp bức tranh tương lai của dân tộc bằng mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam:

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. 

Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Nhiệm vụ giải pháp hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội Việt Nam bằng giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; Quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; Quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Tác giả
ThS. Nguyễn Thành Phương